Vôi không chỉ đơn thuần là phân bón cung cấp dưỡng chất canxi (Ca) cho cây trồng mà còn nhiều tác dụng nữa mà phân hóa học khác không có được, đó là: (a) Vôi ngăn chận sự suy thoái của đất; (b) Vôi khử được tác hại của mặn; (c) Vôi ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất; và (d) Vôi phát huy hiệu lực của phân hữu cơ, phân vô cơ và thuốc diệt cỏ.
Cần hiểu rõ tác dụng của từng dạng vôi trước khi sử dụng: (1) Bột đá vôi (CaCO3): được làm ra bằng cách nghiền mịn đá vôi. Loại nầy tác dụng chậm, thường từ 2-6 tháng sau khi bón tùy theo độ mịn của bột đá; (2) Vôi nung” (CaO): được tạo ra bằng cách nung đá vôi trong lò nung như làm gạch ở nhiệt độ khoảng 900-1.000oC. Loại nầy tác dụng mạnh và nhanh nhất nhưng dễ gây bỏng khi gặp nước; (3) Vôi tôi (Ca(OH)2): được tạo ra bằng cách tưới lên vôi nung một lượng nước gần bằng trọng lượng của nó, lúc đó vôi tả ra thành bột, sinh nhiệt (khoảng 150oC) và bốc hơi. Dạng vôi nầy tác dụng cũng khá nhanh; (4) Vôi thạch cao (CaSO4): Đây là dạng vôi đặc biệt có chứa lưu huỳnh, tác dụng nhanh nhưng không nên sử dụng ở đất có phèn.
1. Vôi cung cấp dưỡng chất Canxi cho cây trồng. Canxi là dưỡng chất trung lượng nên cây trồng cần nhiều Canxi để làm vững chắc vách tế bào. Do đó, thiếu Canxi cây yếu ớt dễ đổ ngã, dễ bị sâu bệnh tấn công, trái hay bị nứt; khi thiếu trầm trọng đọt lá non biến dạng, quăn queo rồi chết khô. Ngoài ra, Canxi còn giúp cây trồng giải độc, tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi của nắng nóng, mặn và phèn. Hầu hết đất canh tác ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đều thiếu Canxi, do đó cần phải bón vôi (bột đá vôi hay vôi tôi) mỗi năm một lần để cung cấp Ca cho cây. Đối với lúa, nên bón lúc làm đất vụ Hè Thu, còn vườn cây ăn trái nên bón vào đầu mùa mưa với liều lượng từ 30-50 kg/công. Lưu ý, Ca được cây hấp thụ qua tiến trình hút nước, đồng thời Ca không chuyển vị trong cây nên cây cần Ca trong suốt quá trình sinh trưởng.
2. Vôi ngăn chận sự suy thoái của đất. Ở đất có phèn, đất thâm canh, đất canh tác bón nhiều phân đạm (urê) và kali lâu năm, và nhất là điều kiện nóng, ẩm mưa nhiều như ở ĐBSCL thì sự suy thoái của đất diễn ra khá nhanh chóng. Khi đất bị suy thoái, năng suất cây trồng giảm dần theo thời gian canh tác, khoáng sét trong đất bị phá hủy, đất mất dần cấu trúc, trở nên rời rạc, mềm nhão khi gặp nước và kết dính đóng váng khi khô, đất trở nên bí chặt kém thông thoáng. Nếu để tình trạng suy thoái kéo dài, đất trở nên già cổi, bạc màu, sức sản xuất kém, năng suất và chất lượng của cây trồng giảm, lúc đó không thể khôi phục lại sức sống của đất được. Bón vôi (bột đá vôi) vào đấu mùa mưa là một trong những biện pháp hữu hiệu ngăn chận tiến trình suy thoái nầy, giảm ngộ độc sắt (Fe), nhôm (Al) và măngan (Mn) cho cây trồng, phục hồi cấu trúc đất làm đất thông thoáng, thấm nước tốt.
3. Vôi khử được tác hại của mặn. Mực nước biển dâng lên do tác động của biến đổi khí hậu, cùng với lưu lượng nước sông Cửu Long ngày càng ít đi trong mùa nắng, làm cho nước biển xâm nhập sâu vào đất liền gây nhiễm mặn nhiều vùng đất ven biển ở ĐBSCL. Đất nhiễm mặn bị mất dần cấu trúc, rời rạc; Còn cây trồng thì không hút được nước và dưỡng chất. Để hạn chế tác hại của mặn, những vùng đất mặn có phèn nên bón vôi nung (CaO) để rửa mặn, còn đất mặn không phèn nên bón vôi thạch cao (CaSO4) với liều lượng khoảng 30-50 kg/công. Bón bằng cách rải đều trên đất ruộng đã được cày xới và ngập nước, đối với đất liếp phải được cuốc lên trước khi bón vôi. Sau khi rải vôi cần bừa hoặc trục cho vôi trộn đều trong đất, ngâm nước từ 1-2 ngày rồi rút bỏ nước nầy đi. Còn đất liếp vườn cây ăn trái thì phải tưới một lượng nước ngọt dư thừa để rửa mặn ra khỏi liếp.
4. Vôi ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất. Đất trở nên chua khi bị suy thoái là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh trong đất phát triển. Trên đất ruộng, nấm bệnh làm dưa bị chạy dây, cà bị héo rủ, … Bệnh vàng lá, thối rễ, chảy mủ thân, … ở cây ăn trái trồng trên đất liếp lâu năm ngày càng trở nên nghiêm trọng ở ĐBSCL. Một trong những biện pháp ức chế sự phát triển của những loại nấm gây hại nầy là bón vôi cải tạo đất. Thông thường có thể bón hàng năm vào thời điểm sửa soạn đất hoặc bón liều cao từ 100-200 kg/công nhưng vài năm mới bón lại một lần. Bón vôi sẽ giúp cho những vi khuẩn có lợi trong đất phát triển như vi khuẩn cố định đạm ở cây họ đậu. Câu “không lân, không vôi thôi trồng đậu” cũng đã nói lên vai trò của vôi trong canh tác.
5. Vôi phát huy hiệu lực của chất hữu cơ, phân vô cơ và thuốc diệt cỏ.
Bón vôi giúp chất hữu cơ phân hủy nhanh hơn, làm giảm ngộ độc hữu cơ ở đất lúa; Vôi giúp giữ chất mùn (từ sự phân hủy chất hữu cơ) không bị rửa trôi ở đất liếp vườn cây ăn trái và ở đất có nhiều cát, nên đã phát huy vai trò của chất hữu khi được cung cấp vào đất.
Ở đất phèn, phân lân bón vào đất chỉ hữu dụng khoảng 30%, bón vôi trước khi bón phân lân, nhất là lân supe sẽ làm gia tăng sự hữu dụng của phân lân. Bón vôi còn làm gia tăng hữu dụng dưỡng chất Môlipđen (Mo) và gia tăng sự hấp thu Kali (K) của cây trồng.
Các loại thuốc diệt cỏ thuộc nhóm hoá học Triazine (Ametryn, Atrazine, …) và nhóm Sulfonylurea (Bensulfuron Methyl, Cinosulfuron, Ethoxysulfuron, …) phát huy tác dụng diệt cỏ hữu hiệu hơn ở đất có bón vôi.
Tóm lại, vôi có nhiều tác dụng tốt làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng và giúp môi trường canh tác bền vững. Nguyên liệu làm vôi (đá vôi) ở nước ta có rất nhiều từ Bắc chí Nam và ngay cả ở ĐBSCL. Lâu nay nông dân có phần ngán ngại trong việc sử dụng do bột vôi gây khó khăn cho người rải phân. Do đó, cần có những nghiên cứu kỹ thuật sản xuất vôi giúp cho nông dân sử dụng được tiện lợi hơn.
Giáo sư Nguyễn Bảo Vệ